Phân đoạn X86

Mục này giới thiệu về phân đoạnMáy tính mini trong cuối thập kỷ 1970 bị giới hạn 64 KB giới hạn địa chỉ, trong khi bộ nhớ ngày càng rẻ hơn. Một số máy tính mini như PDP-11 sử dụng các dãy hay khoang phức tạp, hoặc trong trường hợp VAX, thiết kế lại bvxl phức tạp hơn mà có thể xử lý địa chỉ 32 bit và dữ liệu. Gốc 8086, được phát triển từ bvxl 8085 và mục tiêu chủ yếu máy tính nhỏ, rẻ thì ngược lại sử dụng thanh ghi đoạn mà tăng độ rộng địa chỉ bộ nhớ lên chỉ 4 bit. Bằng cách nhân một địa chỉ 64KB(16 bit) bởi 16(thêm 4 bit), địa chỉ 20 bit có thể đánh tổng công 1 megabyte (1,048,576 bytes), một con số khá lớn cho máy tính nhỏ vào thời bấy giờ. Cách địa chỉ này vẫn còn cho tới hiện tại, khi mà bộ vi xử lý khởi động thì vào chế độ thực trước (để tương thích hay sự duy trì hơi khó hiểu).
Dữ liệu và mã có thể được quản lý một đoạn 16 bit với không gian 1MB địa chỉ, hoặc trình biên dịch có thể mở chế độ xa sử dụng 32 bit đoạn:offset. Điều này khá thú vị cho việc lập trình trong 8086. Vào 1985, mô hình đoạn 16 bit là một nhân tố hiệu quả bởi sự giới thiệu thanh ghi 32 bits offset, trong thiết kế 386.Tại chế độ thực, đoạn có thể đạt được bởi dịch địa chỉ đoạn qua trái 4 bit và thêm offset theo thứ tự để nhận được 20 bit địa chỉ. Ví dụ, nếu DS là A000h và SI là 5677h, DS:SI sẽ chỉ tại địa chỉ DSx10h+SI=A5677h. Tổng địa chỉ trong chế độ thực là 2^20 bytes, tương đối ấn tượng vào thời 1978.